Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020
Đạo Trưởng Chí Tín cuộc đời tu thân hành đạo
TỰ THUẬT CUỘC ĐỜI TU THÂN HÀNH ĐẠO CỦA CHÍ TÍN
I. CÁ NHÂN VÀ LIÊN HỆ GIA ĐÌNH
Sanh năm Mậu Ngọ (10-10-1918) tại thành phố Gò Công, nay thuộc Tiền Giang, trong gia đình tiểu thương nghèo.
Tộc danh là Lê Văn Bá. Thánh danh là Chí Tín.
Phụ mẫu: Cha là Lê Văn Còn, nguyên Giáo sư Phái Thượng Ban Chỉnh Đạo thuộc Hội Thánh Bến Tre của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (đạo Cao Đài), nguyên đầu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, Gia Định, nay thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông đắc quả Minh Đức Đạo Nhơn, thường giáng cơ dạy đạo trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo lý Cao Đài - nơi hai con Đạt Minh và Chí Tín hành đạo.
Mẹ là Phạm Thị Huỳnh, chức việc trong Ban cai quản Nữ phái của Thánh thất Bình Hòa, Gia Định.
Bào huynh là Lê Văn Non, Thánh danh Đạt Minh, nguyên giáo hữu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, nhơn viên của Cơ Quan PTGLĐĐ, lãnh chức vụ từ Ngoại Giao Vụ, Nội Chánh Vụ, Tổng Thơ Ký đến ngày liễu đạo là Tham Lý Minh Đạo (trong tổ chức Cơ Quan PTGL Cao Đài Giáo Việt Nam từ buổi sơ khai cùng với Bào đệ là Chí Tín), ngày 13-8 Ất Sửu, 1985.
Hôn phối là Phạm Thị Mai, Thánh danh Bạch Đức, nhơn viên Ban chấp hành Nữ Chung Hòa, thuộc hệ thống Cơ Quan PTGL Đại Đạo.
Có 3 con, hai trai, một gái.
II. ĐỜI NIÊN THIẾU
Thuở nhỏ học trường tiểu học thành phố Gò Công. Đến năm 1932, theo cha mẹ di cư lên Bà Chiểu, Gia Định, vì nạn kinh tế khủng hoảng nên gặp khó khăn sanh sống ở quê nhà. Lên đây tiếp tục học trường tiểu học bà Chiểu cho đến khi thi đậu vào trường Trung học Pétrus Ký ở Chợ Quán (Saigon). Tốt nghiệp bằng trung học Pháp Việt (1938). Vì gia cảnh nên nghỉ học để thi vào làm thơ ký xưởng Ba Son (Arsenal) và sau 3 năm, thi đổ vào Sở thương chánh, được bổ về tỉnh Biên Hòa. Sau một năm, vì chiến tranh Pháp Đức và Nhật chiếm Đông Dương nên bỏ quan trường lên Đà Lạt làm quản lý bút toán một nhà máy cưa gỗ thông của hãng Đan Mạch vừa xây dựng vào đầu năm 1942. Đến 1946 trở lại Saigon buôn bán và làm việc hãng Đan Mạch ở Saigon chuyên xuất nhập cảng và đại lý các tàu biển ngoại quốc.
III. ĐỜI TU HÀNH THỜI NIÊN THIẾU
Lên 8 tuổi đã theo cha vào chùa Tịnh độ Phật giáo cư sĩ tại thành phố Gò Công để học tụng kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, và Đại Bi. Vì tánh hay ngỗ nghịch, mỗi lần nghỉ hè, mẹ bắt theo đi viếng chùa chiền ở Bà Rịa, trên vùng núi non tĩnh mịch và được ký bán cho Hòa thượng Thiên Thai, danh sư nổi tiếng thời bấy giờ. Khi di cư lên Gia Định, cùng gia đình nhập môn vào đạo Cao Đài, tại Thánh thất Phú Nhuận vào tháng 3 năm 1933. Sau đó được vào học lớp Giáo huấn Đồng nhi lễ sĩ sau khi Thánh thất Bình Hòa dựng xong ở Bình Hòa xã, Gia Định.
Đi tìm Đạo trên núi Điện Bà Tây Ninh
Năm 1937, đang học năm thứ 4 trường Pétrus Ký để thi bằng Thành Chung, phát tâm xuất gia đi tìm minh sư trên núi non để học Đạo hầu tìm phương pháp độ đời giải khổ cho nhơn loại thoát khỏi vòng tứ khổ, mặc dầu đã nhập môn và học hết khóa huấn luyện Đồng Nhi lễ sĩ ở Thánh thất Bình Hòa rồi mà chưa thỏa mãn tham vọng xuất gia tìm minh sư học đạo giải thoát chớ không có mộng cầu làm Tiên Phật riêng tư. Trước để tìm học bào chế thuốc men trị bịnh, nghiên cứu cây cỏ hoa lá trong rừng của nước nhà hầu bào chế một thức ăn như thuốc viên bổ multivitamines mà hồi đó chưa có sản xuất được, mục đích là giúp con người khỏi khổ sở vật chất vì lo miếng ăn hằng ngày, chớ quần áo và chỗ ở có tạm bợ dễ dàng hơn là thức ăn rất cần thiết cho sự sống, nhưng không chủ trương theo pháp môn nhịn đói (vô úy) thời đó vì làm mất sức khỏe người tu và không được sự tinh tấn sáng suốt của tâm linh. Vào ngày 26 tháng Chạp, giữa đêm khuya lén mở cửa thoát ra khỏi nhà để đi lên núi Điện Bà Tây Ninh vì không dám cho gia đình hay sợ bị cản trở.
Trước đó, cùng với Bào huynh Đạt Minh tập thủ cơ, nhưng vì thiếu bộ phận cầu cơ và chưa có kinh nghiệm nên không có kết quả mỹ mãn. Tuy nhiên có hai đấng thiêng liêng nhập xác cho anh Đạt Minh để xuất khẩu dạy đạo lý, có khi dùng Pháp văn cho dễ hiểu hơn Hán văn. Ngài dạy cách kiểm điểm từ tư tưởng, lời nói và hành vi hằng ngày và ghi vào sổ nhật ký, giống như làm tờ vô ngã kiểm của CQPTGL vậy. Và hằng tuần Ngài cho điểm sau khi kiểm điểm. Sự trốn đi núi, tôi cũng dấu không cho anh Đạt Minh hay. Trước khi đi, tôi vào làm lễ trước Thiên Bàn và được chơn linh của một đấng thiêng liêng nhập vào, đốt một bó nhang và chạy ra cửa, băng qua các vườn tược nhà cửa từ Bà Chiểu lên Chí Hòa, Hòa Hưng giữa đêm khuya chó sủa ran, tay họa phù chúng liền im bặt. Việc đăng sơn, cũng đã dự trù trước, mỗi đêm tập lên Thánh thất Bình Hòa chạy xung quanh bốn gốc, tập cho nhẹ nhàng để băng rừng leo núi khi cần. Điều lạ lùng là trong túi không có dính một đồng xu nào mà nói làm sao xe đò chở đi không lấy tiền lại còn dấu không cho ai kiếm thấy mình nữa. Lên đến chơn núi, lại bỏ guốc đi chơn không lên tới chùa Trung, vào chùa giảng đạo thao thao bất tuyệt (thiêng liêng xuất khẩu lúc đó) được cho ăn cơm no, sau đó nhờ người chỉ đường lên đảnh núi, mặc dầu mặt trời vừa lặn không còn ánh sáng, cũng một hai đòi đi liền không ai cản được. Nhảy phóc lên các hòn đá, trèo leo lên các cây tre lồ ồ, nhảy nhót cành này qua cành kia như con vượn, mặc cho gai cào rách áo chảy máu nhưng cũng vẫn tuông rừng leo núi cho đến khuya thì lên đến chót đỉnh, lúc đó thiện nam cũng hành hương đông và đốt lửa sáng thấy từng đoàn năm bảy người. Tôi liền vào quì lạy lễ Phật và ngồi tham thiền một lúc lâu. Bỗng trí não bừng sáng lên như sau một cơn mê man vừa tỉnh giấc. Ơn Trên dạy phải hồi gia lập tức vì đi không cho gia đình hay, cha mẹ già khóc than và anh chị chạy kiếm tứ tung, làm như vậy đắc tội và hơn nữa nhơn đạo chưa xong làm sao có thể xuất gia sớm quá được. (Việc này khi vào hành đạo tại Cơ Quan, Đức Lê Đại Tiên có nhắc lại chuyện cũ để khuyến khích việc hành đạo). Ra ngoài chùa, được chư Phật tử kể lại mấy ngày trước có hai cậu đi tìm đạo lạc vào rừng bị cọp ăn thịt, bỏ xương phơi trắng giữa rừng, mà dợn tóc gáy hú hồn cho mình. Thầm cảm ơn Thầy Mẹ đã hộ trì cho mình được thoát nạn. Sáng tinh sương, đổ dốc núi theo đường mòn, chớ không dám đi băng rừng trèo núi như khi lên vì đã tỉnh táo rồi. Thế mà, gần đến chân núi lại bị lạc vào giữa rừng rậm đến một ngã ba không biết phải ra lối nào, la rát cổ họng mà không thấy một tiếng đáp lại. Tâm thần bắt đầu xao xuyến ám ảnh sợ bị cọp ăn phơi xương như đã nghe thuật lại. May sao, còn chút sáng suốt chạy theo dòng suối, định bụng dầu thế nào cũng có lối ra sông. Đi một đổi lâu thì thấy một cánh đồng lúa đã gặt lố dạng. Mừng quá chạy riết đến một chòi canh của một ông già giữ vườn dưa hấu trồng để bán Tết. Nghe mình thuật câu chuyện, ông ấy dọn cơm nước cho ăn no nê. Hỏi đường về ra bến xe đò, thì được biết mình đang ở phía sau núi, bên kia của bến xe đi xa lắm, sợ lạc nữa, mới khẩn khoản nhờ ông cho người đưa dùm. Ông tặng cho hai trái dưa hấu to để mang về ăn Tết. Ngộ là không có tiền mà vào tiệm ăn hủ tíu nằm dưới chân núi, chủ tiệm hoan hỉ không lấy một xu vì lúc đó có phong trào thương mến các học sinh hiền hậu, nhất là có chí lên núi học đạo. Vì có phong trào hát tuồng Phật Tổ xuất gia của gánh hát cải lương Tân Thinh nên ảnh hưởng rất lan tràn sâu đậm trong các từng lớp dân gian.
Về gần tới nhà ở sâu trong xóm, nên đi bộ hai tay ôm hai trái dưa lửng thửng về nhà trong lúc chiều trời sẫm tối, trong nhà thấy bóng chạy túa ra, người chị hai ôm chầm em vào lòng mà khóc lên nức nở, mừng mừng tủi tủi vì tưởng đâu em mình đã chết theo lời đồn đãi nên hiện hình về. Cả xóm tựu lại mừng rỡ, vì ai ai cũng thương mến mình. Sau đó, gia đình ngăn cản đến Thánh thất hành đạo mà bắt ở nhà lo học hành và tu ở nhà cũng được, sau thành đạt sẽ tính tới.
IV. GIA NHẬP CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ CAO ĐÀI
Nhờ Bào huynh Đạt Minh giới thiệu đi hầu đàn cơ tại nhà đạo trưởng Huỳnh Chơn ở Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng), lẽ ra nếu không có vụ trốn lên núi, thì đã được anh rủ đi hầu đàn ở Minh Tân Khánh Hội trước, mà hiểu đạo rộng hơn trước khi vào Cơ Quan. Sau đó một vài đàn cơ, mình thấy đường lối chánh chơn của anh chị em đạo tâm, nên nhận chức thủ bổn cho Cơ Quan, vì mình đang làm giám đốc một công ty lớn ở Đô Thành Sài Gòn và nhơn viên phòng Thương mại kỹ nghệ nên dĩ nhiên được tin cậy. Sau đó có Đức Lê Đại Tiên nhắc vụ mình đi núi tìm đạo khi trước và khuyên mình hãy hợp tác hành đạo vì đúng với tâm nguyện và cũng là Thánh ý cơ duyên của hiền đệ. Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch có cho một bài thi tại Thánh tịnh Ngọc Minh Đài năm 1965.
“Có kẻ buôn hài đến chợ trưa,
Kề bên bến giác cậy ông đưa;
Ông đưa, ông dặn này ghi nhớ,
Hài của người buôn lắm kẻ vừa.”
Ngài khuyên hãy hợp tác hành đạo với Cơ Quan mặc dầu Ơn Trên chưa chỉ định nhưng cũng là Thánh Ý và dặn hãy cẩn thận đừng phí ngày giờ và tiền bạc không đúng lúc và không nhằm chỗ (có lẽ Ngài muốn nhắc câu "hài của người buôn lắm kẻ vừa") vì bản tánh cởi mở rộng rãi vui vẻ hay làm vừa lòng mọi người.
Đến đêm giao thừa, 29 tháng Chạp năm Ất Tỵ (20-1-1966) tại Thiên Lý Đàn, Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ có ban cho Thánh danh:
“LÊ VĂN BÁ thấy con chí nguyện,
Hiệp chung lo điều kiện Cơ Quan;
Dốc đem, đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.
Nay Thầy ban danh Tiên cho trẻ,
Để con hiền mát mẻ tâm trung;
Tên là CHÍ TÍN lập công,
Bước mau để kịp đại đồng thế gian.”
Ngày Cơ Quan PTGL ra mắt đại hội tại Nam Thành Thánh Thất, được nhơn sanh bầu vào Ban chấp hành đầu tiên, ngày rằm tháng hai năm Bính Ngọ (1966) với chức vụ Nội Chánh Vụ trưởng, cùng với Đạo trưởng Huệ Lương Trần văn Quế lãnh đạo với chức vụ Tổng Lý Minh Đạo và Bào Huynh Đạt Minh làm Ngoại Giao Vụ.
Dưới đây liên tiếp nhận lãnh các chức vụ trong Cơ Quan.
Nội Chánh Vụ Trưởng nhiệm kỳ đầu tiên năm Ất Tỵ 1966 và nhiệm kỳ hai năm kế 1967-1968.
Phó Tổng Thơ Ký nhiệm kỳ hai năm Kỷ Dậu và Canh Tuất (1969-1970) kiêm Tổng Thơ Ký và Tham Lý Minh Đạo cuối năm 1969 vì Đạo trưởng Minh Lý ra khỏi Cơ Quan.
Tổng thơ ký chánh thức năm Tân Hợi 1971.
Quyền Tham Lý Minh Đạo nhiệm kỳ 3 năm 1972-1973-1974.
Tham Lý Minh Đạo chánh thức nhiệm kỳ 3 năm 1975-1976-1977.
Chủ tịch Hội Đồng Nghiên cứu Giaó lý sau khi Đạo trưởng Kiến Minh ra đi vào năm 1978, một tổ chức song hành với CQPTGL.
Sau hết là Phó Tổng Lý Minh Đạo kể từ 18-2 Ất Sửu (07-4-1985) và lưu nhiệm một năm nữa của năm Bính Dần 1986 cho đúng chu kỳ 60 năm đạo Cao Đài ra mắt nhơn sanh tại Việt Nam. Phục vụ CQPTGL được hơn 21 năm, quá giai đoạn 20 năm đầu của bộ máy Đại Đạo sau cùng, lúc nào cũng dốc lòng đem hết chí thành tâm đạo khả năng công sức và tài nguyên để làm tròn trách vụ của mình nhận lãnh với thiêng liêng và nhơn sanh giao phó, không thoái chí ngã lòng, chồn chơn lùi bước trước những khảo đảo từ nội tâm đến ngoại cảnh đưa đến, đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn lúc ban Tiên danh Chí Tín:
"Dốc đem đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.” [202]
Để đền ơn Thầy và chư Phật Tiên có công dìu dắt dạy dỗ, lúc nào cũng cố gắng dồi trau tính nết, tâm hạnh để xứng đáng là học trò Tiên, môn đồ của Thầy, cốt lo chánh kỷ để hóa nhơn với chí hướng đã chọn khi bước vào con đường tu học là tiên lo tự giác, hậu phải giác tha để đền ơn đáp nghĩa với Thầy và chư Phật Tiên đã có công chắt chiu dạy dỗ từ thuở còn thơ. Trong lúc hành sự nhiệm vụ Tổng thơ ký được Đức Giáo Tông nâng đỡ và âu yếm gọi là Tổng thư ký của Bần Đạo. Và khi lãnh nhiệm vụ mới là Tham Lý Minh Đạo, được Đức Giáo Tông khảo hạch trước bửu điện và toàn thể nhơn viên Cơ Quan và khấu trình dưới sự chứng kiến theo dõi của Đạo trưởng Phụ tá Bảo pháp Chơn Tâm và toàn thể nhơn viên Cơ Quan dự đàn cơ (đàn 15-2 Nhâm Tý 29-3-1972):
THI
“Năm trước, muốn xong bản phúc trình,
Phải nhiều tâm thức lặng thinh thinh,
Móc moi tâm não ra mà viết,
Viết tới xóa lui vẫn bực mình.
HỰU
Nay vừa xuất khẩu đã thành văn,
Mạch lạc khấu trình có lớp lang,
Bất tuyệt thao thao đầu chí cuối,
Tỏ ra tiến bộ thật vô ngần.”
Thật chúng ta phải cảm đội thâm sâu sự chắt chiu dạy dỗ từng bước, từng chi tiết hành đạo như những người anh người cha ruột thế gian với đầy đủ tình thương yêu đậm đà thấm thiết, lắm lúc quá nuông chìu chúng ta, thể hiện đức độ hạ mình của Tiên Phật trong cơ tận độ kỳ ba mà tất cả người Thiên ân sứ mạng cần phải noi theo. Ngoài ra, Ngài còn không quên nhắc nhở gởi gắm mình về công phu luyện kỷ cho Đức Đông Phương Lão Tổ (04-02-1972).
“Thấy trò em út nghĩ mà thương,
Trỗi bước từ lâu vạn dặm trường;
Sức mọn, nhưng lòng không quá mọn,
Đỡ nâng nhờ có Lão Đông Phương.”
Thật là phấn khởi vô cùng, mình thấy đã được ân huệ Thiêng Liêng dắt dìu từng bước công quả, công trình và công phu cho đầy đủ mới có thể phản bổn hoàn nguyên phục hồi cựu vị được và chính hai Đấng lãnh đạo tối cao vô vi của lưỡng đài Cửu Trùng và Hiệp Thiên trực tiếp huấn luyện cho mình được nên người môn đệ xứng đáng của các Ngài và của Thầy nữa. Nhớ có lần Thầy nhắc nhở sứ mạng của mình qua bài thi:
"Chí Tín, chí tâm chẳng đổi dời,
Nghiệp đời chừng đó dễ buông trôi;
Gay chèo Bát Nhã trên dòng nước,
Sứ mạng Tam Kỳ nhớ trẻ ôi!" [203]
Và ở một đoạn Thầy nhắc nhở thêm:
"Tâm con vốn Bửu Tòa Thầy ngự,
Hãy giúp người gìn giữ Thiên cơ;
Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ,
Công Bình, Bác ái, Từ bi đứng đầu. (…)
Đã chấp nhận con đò cứu khổ,
Lướt dòng sông quốc độ kỳ ba;
Tâm con con sẵn bửu tòa,
Ngoài tâm chẳng có chi là đâu con." [204]
Phải chăng đã đến lúc phải đem "đạo mầu công dụng mọi nơi" để "cho người thông cảm cùng người; dẹp tan sắc phái phục hồi tình thương" cho đúng tiêu đích của Cơ Quan. Và ai, lúc nào, nơi đâu? Cho nên các hàng lãnh đạo Cơ Quan được lịnh xuất gia, trước hết Đạo trưởng Quyền Tổng Lý Minh Đạo Thiện Bảo và Đạo tỷ Chủ Tịch Nữ Chung Hòa Ngọc Kiều và liền đó 5 bậc đàn anh của Cơ Quan: Chơn Tâm, Chí Tín, Đạt Minh, Chí Hùng và Chí Thuần cũng được lịnh xuất gia vào ngày 15-5 Ất Sửu (1985). Trên dòng đạo pháp cũng đã được Ơn Trên truyền giao giáo pháp đủ đầy khả dĩ thay Tôn Sư mà truyền lại đàn em. Các vị tiếp nối như đạo huynh Huệ Chơn vừa được nâng đỡ lên hàng Phụ tá Bảo pháp, Chí Thành và Thiên Vương Tinh cũng được ân huệ cho vào khóa tu Bá nhựt trúc cơ để cho đủ thần lực mà hành đạo.
Nếu chỉ dạy cho Đạo tỷ Ngọc Kiều, sau khi giải thích ý nghĩa của hai chữ XUẤT GIA của các hàng Thiên ân Cơ Quan, thì không phải là thật tế vì bịnh và hoàn cảnh của đạo tỷ làm sao thực hành lời dạy cao xa dưới đây:
“Sống đây vũ trụ là nhà,
Nghĩa là non nước, tình là vạn sanh." [205]
Cũng trên đường hướng đó, Đức Ngô Đại Tiên đã dạy Chí Tín một đàn cơ tại Minh Đức Tu Viện, sau khóa tu cho 3 vị Chí Thành, Chí Mỹ, Thanh Chơn ngày 2 tháng 10 Nhâm Tuất (16-11-1982):
"Chí Tín, hiền đệ có tâm hành đạo muốn kế tục đạo nghiệp gìn giữ Tổ Đình (tức là Tổ Đình của Chiếu Minh Cần Thơ mà Chí Tín là môn sanh đã thọ chơn truyền) và theo ý của nữ đồ MINH DĨ (là người chị cao niên và uy tín nhất của Phái Chiếu Minh hiện nay). Đó là điều Tiên Huynh rất lưu ý, nhưng đúng theo sự thật thì Tiên Huynh và hiền đệ có cùng sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ mà Thượng Đế đã phó giao. Nay Tiên Huynh, do tôn ý trước Tam Giáo Tòa, hiền đệ được về Tổ Đình Cần Thơ để cùng chung lo lễ cúng, nhưng phải hoãn việc chấp cơ, hãy dùng tâm niệm vô vi, Tiên Huynh sẽ chứng lễ và ban ơn cho toàn thể chư đệ tử nam nữ. Hiền đệ còn phải được dạy thêm trong một khóa tu Đông Chí sắp đến mới đủ thần lực thanh tịnh mà kế tục đạo nghiệp của Tiên Huynh đến hết một thời gian nhất định. Hiền đệ còn mang một sứ mạng chính thức to tát hơn. Nên lưu ý việc gì đến sẽ đến. Phần Tiên Huynh khuyên hiền đệ hãy bình tâm mà thi hành mọi việc cho đúng đạo lý thiên cơ.
Trường thi buổi chót chọn nguyên nhân,
Hoằng đạo thế Thiên định cõi trần,
Không chậu không lồng là giải thoát,
Còn danh, còn tướng ấy còn phân.
Đạo tâm ví thể Trời che chở,
Tục tánh dường như đất cắt phần,
Giải thoát chác chi dòng đối đãi,
Sạch lòng mới xứng phận Thiên ân.”
Và trong một đàn cơ riêng tại Minh Đức Tu Viện nhơn ngày kỷ niệm khai trương 25-01-1985 (Ất Sửu), Chí Tín và hiền tỷ Bạch Tuyết cầu Ơn Trên dẫn đường mở rộng lối hành đạo cho Cơ Quan theo dự tính, nhưng Ơn Trên lại không chỉ rõ hay chấp nhận đường lối đó, lại chỉ vỏn vẹn cho có một bài thi đố rồi thăng, nên chúng tôi không dám tái cầu ai nữa.
“Chắt chiu từ thuở mới nên hiền,
Gởi gắm chờ người biết hạnh duyên;
Tôn chỉ nêu cao đường tận độ,
Dư đồ vạch rõ lối qui nguyên.
Tùy tâm nguyện sẽ khơi nguồn thánh,
Do chí thành mới đạt ý Thiên,
Muốn tới Cao Đài đi mới tới,
Có chi mà phải hỏi thần tiên." (Đức Vô Vi Tiên Trưởng)
Trong một đàn cơ, rằm tháng 7 Ất Sửu (30-8-1985), Đức Bảo Pháp Huỳnh Chơn cho một bài thi để trấn an chư Thiên ân:
“Vật cùng tắc biến, biến liền thông,
Trí giả tri cơ lối đại đồng;
Pháp đạo vận hành từ thượng hạ,
Quyền Thầy chuyển hóa khắp Tây Đông.
Thiên ân hiểu rộng không nao chí,
Hướng đạo nhìn xa chẳng não lòng,
Dụng đó vẫy vùng không dấu dạng,
Tùy thời ẩn hiện tợ thần long.”
Và Đức Lý Giáo Tông tiếp theo cho một bài thi đầy đáp số:
“Tiên Ông trao sẵn bộ Thiên thơ,
Đã mấy mươi năm luống đợi chờ;
Sứ mạng thiên ân kỳ tận độ,
Xây nền Thánh đức kịp thời cơ.” [206]
V. PHẦN THỌ TRUYỀN ĐẠO PHÁP
Thọ pháp Sơ thiền cửu cửu chung với chư huynh tỷ đệ muội ở Cơ Quan, khóa đầu tiên năm Bính Ngũ (12-6-1966) tại Thiên Lý Đàn với đạo trưởng Huỳnh Chơn Bảo Pháp Chơn Quân theo Thánh lịnh của Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ. Nhưng vốn quyết tầm đạo cho thấu đáo chơn truyền của Đại Đạo Chiếu Minh, sau khi học Đại Thừa Chơn Giáo của Phái Chiếu Minh. Nhờ đạo trưởng Huệ Lương quen thân với các anh tu của phái Chiếu Minh của các đàn Long An (Anh Lộc), Long Hoa (anh Truyện) và đàn Chợ Lớn (anh Hai Quảng), tôi lần mò làm quen được thân thiết với anh Truyện vốn cùng nghề XNC trong phòng thương mãi và kỹ nghệ Saigon, nên thường được mời ăn cơm chay, tôi ngỏ ý xin keo để trước được hầu đàn của Chiếu Minh, sau thọ truyền đạo pháp. Tại đàn Long Hoa năm 1967-1968, tôi xin keo không được, các anh khuyên tiếp tục làm âm chất công quả cho đầy đủ đi, vì anh còn sứ mạng nơi cơ phổ độ, chừng đến thời giờ Thầy kêu mấy hồi. Mãi hai năm sau, tôi đến đàn anh Lộc (Long ẩn) do sự mời mọc của anh, chớ 2 năm trước anh từ chối cho rằng mình theo chưa nổi đâu. Vào xin keo cũng không được nữa (cũng do đó mà đàn cơ ở Cơ Quan Đức Ngô Đại Tiên đã cho biết lý do không nhận mình làm đệ tử). Nhưng sau thời gian quan sát mình, và biết mình thật tâm tu hành và đã có quá trình hành đạo nhờ dắt các phái đoàn Tòa Thánh, Hội Thánh đến làm lễ tại Thánh Đức Tổ Đình Cần Thơ trước đó, nên anh Lộc và anh Tiềng, vốn là cặp đồng tử của đàn, cho đặc ân quì hầu Thầy ở cuối gốc đàn, hy vọng Thầy thương tình mà kêu dạy (đây là biệt lệ của phái Chiếu Minh đó). Vì cảm trước tấm lòng chí thành cầu Đạo, nên Thầy ban ơn cho bài thi ngày 15-3 Canh Tuất (18-6-1970):
“Tòng BÁ quản gì với tuyết sương,
Nguyên căn tỉnh ngộ tránh tang thương;
Theo Thầy học đạo tìm chơn lý,
Khỏi uổng kiếp này ở cõi dương.”
Một tháng sau, hầu đàn xin keo để được Thầy ban ơn cho thọ pháp hay không thì keo cho. Theo Chiếu Minh, 100 ngày đầu phải công phu cho đầy đủ, muốn chứng minh mình được đầy đủ chưa, phải xin keo Thầy cho biết, thì ra mình xin keo Thầy không chứng minh. Điều dễ hiểu mình đang có phận sự vận động các chi phái thống nhứt nghĩa là mình mót bòn thêm công quả để xong xuôi mình qua Chiếu Minh tu luôn cho trọn phần đầy đủ quả công, trọn nghĩa thủy chung với Cơ Quan. Nhưng xin keo, Thầy không chứng minh điều này dễ hiểu vì mình tu còn thiếu sót, không đủ tứ thời hằng ngày, vì phải đi hành đạo đây đó, và các anh chị trong Chiếu Minh cũng thường quở trách hoài. Được Thầy ban ân, bài thi được truyền bá đến Tổ Đình Cần Thơ mau lẹ, và mình bị các anh chị cười, nhắc mãi bài Thầy chỉ mình để làm bài học chung cho những ai còn thiếu sót phần công phu như mình:
“Bá nhất độ (là 100 ngày) in khuôn in lối,
Một mình con hai mối sao xong;
Ai ra trả nợ đại đồng,
Ai về cố thủ đơn phòng sớm trưa.
Đã bao lúc Thầy vừa ý trẻ,
Khuyên con đừng xem rẻ qui điều;
Thương trò Thầy mới dắt dìu,
Thị phi càng lắm, càng nhiều lạc đưa.
Gương Lục Tổ ngày xưa hiển hiện,
Tay cầm chày, miệng niệm Di Đà;
Mặc người Thần Tú cao xa,
Một câu lục tự thoát qua bể trần.
Hỡi nam nữ, mẫn cần lời dạy,
Luận lý nhiều quấy phải chê bai;
Ngày đêm tưởng niệm Cao Đài,
Bớt nghe bớt thấy, bớt hoài mới nên.
Muốn thành Đạo phải bền chí cả,
Muốn đăng tiên tâm hỏa diệt tiêu;
Đơn phòng đừng để quạnh hiu,
Khách trần lần dứt, sớm chiều tầm nguyên.”
(Đàn Long Ẩn, 07-10-1972)
Sau đó, rán công phu thêm cho đầy đủ và xin keo thì Thầy chứng bá nhật liền và chánh thức được lên nhất bộ. Theo nguyên tắc, nếu tu đúng 3 năm 8 tháng, liệu xét mình đầy đủ thì xin keo để Thầy chứng minh lên Nhị Bộ, nhưng không dám xin keo, để chừng nào Thầy ban ơn thì Thầy cho như có vài trường hợp của các huynh trưởng được Thầy ban ơn.
Mãi đến hôm đàn kỷ niệm ngày Thầy thoát xác 13-3 Ất Mão (24-4-1975) thay vì đi về làm lễ lớn tại Tổ Đình Cần Thơ như thường lệ, nhưng vì tình hình lúc này găng quá, nên làm lễ tại Saigon. Được Thầy ban ơn như sau:
“Hữu chí thiền ngộ đặng pháp minh,
Căn cơ hoài bão hướng Kim Đình;
Tứ ân Nhị Bộ cho tròn vẹn,
Mối Đạo Trời Cha gắng giữ gìn.”
Và Thầy dạy tập chấp bút để thay thế anh Tiềng già yếu hay bịnh hoạn.
Ở CQPTGL được Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ truyền trao nhiều pháp môn như: Pháp Ngoại Công phu thể dục gọi là Thập Nhị cẩm Đoạn, trong đó có trùng nhiều tư thế công phu của Chiếu Minh, các khẩu quyết Sơ cơ, Nhị cơ, Tam muội chánh định. Pháp môn luyện âm dương ngũ hành để diệt ngũ âm trừ ngũ tặc, luyện tan thất tình lục dục cho tâm được thanh tịnh mà bước vào trúc cơ có hiệu năng hơn. Đặc biệt trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp này hành giả gặp nhiều khó khăn.
Được Đức Lão Tổ và sư phụ Ngô Đại Tiên dạy truyền pháp Chiếu Minh cho nên xin ở Cơ Quan nếu có đủ điều kiện trường chay tuyệt dục và quyết tâm cầu tu giải thoát đốt cháy hết que trầm (thay cho việc đốt hồng thệ trong Chiếu Minh) lập đại nguyện trước Tam Giáo Tòa, nếu khinh thường đạo pháp, khi trọng tội cũng bị tam đồ bất năng thoát tục không khác gì lời thệ ở Chiếu Minh, mục đích để dung hợp pháp môn gọi là tân pháp Cao Đài (pháp môn bất nhị mới thiệt là con đò trời).
Được thu nhận vào khóa Trúc cơ đầu tiên của Cơ Quan năm Mậu Ngọ (1978), sau đó được tiếp tục thọ pháp thập ngoạt hoài thai (300 ngày) và điều ngộ nghĩnh thay làm cho mình vững lòng tin thêm duyên lành chính Sư phụ mình là Đức Ngô Đại Tiên được lịnh Tam Giáo Tòa truyền chánh pháp tu luyện nội đơn trực tiếp với Đạo trưởng Bạch Lương Ngọc trụ trì Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc tại Minh Đức Tu Viện vào ngày mùng 06-7 Nhâm Tuất (24-8-1982).
Với những lời tự thuật này, kính mong chư hiền huynh hiền tỷ và chư đệ muội nghiên cứu suy nghiệm để làm bài học cho bản thân hầu tiến trổi hơn tệ đệ đã mất nhiều thời gian hơn trước đó. Cầu xin Đức Tôn Sư và Sư phụ chứng lòng thành tri ân sâu xa của đệ tử và xin nguyện để hết lòng chơn thành truyền trao đạo pháp cho những ai có căn lành và được nhị vị chứng giám dạy bảo để không mang trọng tội khinh truyền đạo pháp
[202] Thiên Lý Đàn, 29-12 Ất Tỵ, 20-01-1966.
[203] CQPTGLĐĐ, 15-01 Nhâm Tý, 29-02-1972.
[204] CQPTGLĐĐ, 15-10 Quí Sửu, 09-11-1973.
[205] CQPTGLĐĐ, 06-3 Giáp Tý, 06-4-1984.
[206] CQPTGLĐĐ, 15-7 Ất Sửu, 30-8-1985.
http://www.caodaism.net/thuvien/viewstory.php?sid=1356&warning=6
Nguồn: CHÍ TÍN (LÊ VĂN BÁ)
Sanh năm Mậu Ngọ (10-10-1918) tại thành phố Gò Công, nay thuộc Tiền Giang, trong gia đình tiểu thương nghèo.
Tộc danh là Lê Văn Bá. Thánh danh là Chí Tín.
Phụ mẫu: Cha là Lê Văn Còn, nguyên Giáo sư Phái Thượng Ban Chỉnh Đạo thuộc Hội Thánh Bến Tre của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (đạo Cao Đài), nguyên đầu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, Gia Định, nay thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông đắc quả Minh Đức Đạo Nhơn, thường giáng cơ dạy đạo trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo lý Cao Đài - nơi hai con Đạt Minh và Chí Tín hành đạo.
Mẹ là Phạm Thị Huỳnh, chức việc trong Ban cai quản Nữ phái của Thánh thất Bình Hòa, Gia Định.
Bào huynh là Lê Văn Non, Thánh danh Đạt Minh, nguyên giáo hữu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, nhơn viên của Cơ Quan PTGLĐĐ, lãnh chức vụ từ Ngoại Giao Vụ, Nội Chánh Vụ, Tổng Thơ Ký đến ngày liễu đạo là Tham Lý Minh Đạo (trong tổ chức Cơ Quan PTGL Cao Đài Giáo Việt Nam từ buổi sơ khai cùng với Bào đệ là Chí Tín), ngày 13-8 Ất Sửu, 1985.
Hôn phối là Phạm Thị Mai, Thánh danh Bạch Đức, nhơn viên Ban chấp hành Nữ Chung Hòa, thuộc hệ thống Cơ Quan PTGL Đại Đạo.
Có 3 con, hai trai, một gái.
II. ĐỜI NIÊN THIẾU
Thuở nhỏ học trường tiểu học thành phố Gò Công. Đến năm 1932, theo cha mẹ di cư lên Bà Chiểu, Gia Định, vì nạn kinh tế khủng hoảng nên gặp khó khăn sanh sống ở quê nhà. Lên đây tiếp tục học trường tiểu học bà Chiểu cho đến khi thi đậu vào trường Trung học Pétrus Ký ở Chợ Quán (Saigon). Tốt nghiệp bằng trung học Pháp Việt (1938). Vì gia cảnh nên nghỉ học để thi vào làm thơ ký xưởng Ba Son (Arsenal) và sau 3 năm, thi đổ vào Sở thương chánh, được bổ về tỉnh Biên Hòa. Sau một năm, vì chiến tranh Pháp Đức và Nhật chiếm Đông Dương nên bỏ quan trường lên Đà Lạt làm quản lý bút toán một nhà máy cưa gỗ thông của hãng Đan Mạch vừa xây dựng vào đầu năm 1942. Đến 1946 trở lại Saigon buôn bán và làm việc hãng Đan Mạch ở Saigon chuyên xuất nhập cảng và đại lý các tàu biển ngoại quốc.
III. ĐỜI TU HÀNH THỜI NIÊN THIẾU
Lên 8 tuổi đã theo cha vào chùa Tịnh độ Phật giáo cư sĩ tại thành phố Gò Công để học tụng kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, và Đại Bi. Vì tánh hay ngỗ nghịch, mỗi lần nghỉ hè, mẹ bắt theo đi viếng chùa chiền ở Bà Rịa, trên vùng núi non tĩnh mịch và được ký bán cho Hòa thượng Thiên Thai, danh sư nổi tiếng thời bấy giờ. Khi di cư lên Gia Định, cùng gia đình nhập môn vào đạo Cao Đài, tại Thánh thất Phú Nhuận vào tháng 3 năm 1933. Sau đó được vào học lớp Giáo huấn Đồng nhi lễ sĩ sau khi Thánh thất Bình Hòa dựng xong ở Bình Hòa xã, Gia Định.
Đi tìm Đạo trên núi Điện Bà Tây Ninh
Năm 1937, đang học năm thứ 4 trường Pétrus Ký để thi bằng Thành Chung, phát tâm xuất gia đi tìm minh sư trên núi non để học Đạo hầu tìm phương pháp độ đời giải khổ cho nhơn loại thoát khỏi vòng tứ khổ, mặc dầu đã nhập môn và học hết khóa huấn luyện Đồng Nhi lễ sĩ ở Thánh thất Bình Hòa rồi mà chưa thỏa mãn tham vọng xuất gia tìm minh sư học đạo giải thoát chớ không có mộng cầu làm Tiên Phật riêng tư. Trước để tìm học bào chế thuốc men trị bịnh, nghiên cứu cây cỏ hoa lá trong rừng của nước nhà hầu bào chế một thức ăn như thuốc viên bổ multivitamines mà hồi đó chưa có sản xuất được, mục đích là giúp con người khỏi khổ sở vật chất vì lo miếng ăn hằng ngày, chớ quần áo và chỗ ở có tạm bợ dễ dàng hơn là thức ăn rất cần thiết cho sự sống, nhưng không chủ trương theo pháp môn nhịn đói (vô úy) thời đó vì làm mất sức khỏe người tu và không được sự tinh tấn sáng suốt của tâm linh. Vào ngày 26 tháng Chạp, giữa đêm khuya lén mở cửa thoát ra khỏi nhà để đi lên núi Điện Bà Tây Ninh vì không dám cho gia đình hay sợ bị cản trở.
Trước đó, cùng với Bào huynh Đạt Minh tập thủ cơ, nhưng vì thiếu bộ phận cầu cơ và chưa có kinh nghiệm nên không có kết quả mỹ mãn. Tuy nhiên có hai đấng thiêng liêng nhập xác cho anh Đạt Minh để xuất khẩu dạy đạo lý, có khi dùng Pháp văn cho dễ hiểu hơn Hán văn. Ngài dạy cách kiểm điểm từ tư tưởng, lời nói và hành vi hằng ngày và ghi vào sổ nhật ký, giống như làm tờ vô ngã kiểm của CQPTGL vậy. Và hằng tuần Ngài cho điểm sau khi kiểm điểm. Sự trốn đi núi, tôi cũng dấu không cho anh Đạt Minh hay. Trước khi đi, tôi vào làm lễ trước Thiên Bàn và được chơn linh của một đấng thiêng liêng nhập vào, đốt một bó nhang và chạy ra cửa, băng qua các vườn tược nhà cửa từ Bà Chiểu lên Chí Hòa, Hòa Hưng giữa đêm khuya chó sủa ran, tay họa phù chúng liền im bặt. Việc đăng sơn, cũng đã dự trù trước, mỗi đêm tập lên Thánh thất Bình Hòa chạy xung quanh bốn gốc, tập cho nhẹ nhàng để băng rừng leo núi khi cần. Điều lạ lùng là trong túi không có dính một đồng xu nào mà nói làm sao xe đò chở đi không lấy tiền lại còn dấu không cho ai kiếm thấy mình nữa. Lên đến chơn núi, lại bỏ guốc đi chơn không lên tới chùa Trung, vào chùa giảng đạo thao thao bất tuyệt (thiêng liêng xuất khẩu lúc đó) được cho ăn cơm no, sau đó nhờ người chỉ đường lên đảnh núi, mặc dầu mặt trời vừa lặn không còn ánh sáng, cũng một hai đòi đi liền không ai cản được. Nhảy phóc lên các hòn đá, trèo leo lên các cây tre lồ ồ, nhảy nhót cành này qua cành kia như con vượn, mặc cho gai cào rách áo chảy máu nhưng cũng vẫn tuông rừng leo núi cho đến khuya thì lên đến chót đỉnh, lúc đó thiện nam cũng hành hương đông và đốt lửa sáng thấy từng đoàn năm bảy người. Tôi liền vào quì lạy lễ Phật và ngồi tham thiền một lúc lâu. Bỗng trí não bừng sáng lên như sau một cơn mê man vừa tỉnh giấc. Ơn Trên dạy phải hồi gia lập tức vì đi không cho gia đình hay, cha mẹ già khóc than và anh chị chạy kiếm tứ tung, làm như vậy đắc tội và hơn nữa nhơn đạo chưa xong làm sao có thể xuất gia sớm quá được. (Việc này khi vào hành đạo tại Cơ Quan, Đức Lê Đại Tiên có nhắc lại chuyện cũ để khuyến khích việc hành đạo). Ra ngoài chùa, được chư Phật tử kể lại mấy ngày trước có hai cậu đi tìm đạo lạc vào rừng bị cọp ăn thịt, bỏ xương phơi trắng giữa rừng, mà dợn tóc gáy hú hồn cho mình. Thầm cảm ơn Thầy Mẹ đã hộ trì cho mình được thoát nạn. Sáng tinh sương, đổ dốc núi theo đường mòn, chớ không dám đi băng rừng trèo núi như khi lên vì đã tỉnh táo rồi. Thế mà, gần đến chân núi lại bị lạc vào giữa rừng rậm đến một ngã ba không biết phải ra lối nào, la rát cổ họng mà không thấy một tiếng đáp lại. Tâm thần bắt đầu xao xuyến ám ảnh sợ bị cọp ăn phơi xương như đã nghe thuật lại. May sao, còn chút sáng suốt chạy theo dòng suối, định bụng dầu thế nào cũng có lối ra sông. Đi một đổi lâu thì thấy một cánh đồng lúa đã gặt lố dạng. Mừng quá chạy riết đến một chòi canh của một ông già giữ vườn dưa hấu trồng để bán Tết. Nghe mình thuật câu chuyện, ông ấy dọn cơm nước cho ăn no nê. Hỏi đường về ra bến xe đò, thì được biết mình đang ở phía sau núi, bên kia của bến xe đi xa lắm, sợ lạc nữa, mới khẩn khoản nhờ ông cho người đưa dùm. Ông tặng cho hai trái dưa hấu to để mang về ăn Tết. Ngộ là không có tiền mà vào tiệm ăn hủ tíu nằm dưới chân núi, chủ tiệm hoan hỉ không lấy một xu vì lúc đó có phong trào thương mến các học sinh hiền hậu, nhất là có chí lên núi học đạo. Vì có phong trào hát tuồng Phật Tổ xuất gia của gánh hát cải lương Tân Thinh nên ảnh hưởng rất lan tràn sâu đậm trong các từng lớp dân gian.
Về gần tới nhà ở sâu trong xóm, nên đi bộ hai tay ôm hai trái dưa lửng thửng về nhà trong lúc chiều trời sẫm tối, trong nhà thấy bóng chạy túa ra, người chị hai ôm chầm em vào lòng mà khóc lên nức nở, mừng mừng tủi tủi vì tưởng đâu em mình đã chết theo lời đồn đãi nên hiện hình về. Cả xóm tựu lại mừng rỡ, vì ai ai cũng thương mến mình. Sau đó, gia đình ngăn cản đến Thánh thất hành đạo mà bắt ở nhà lo học hành và tu ở nhà cũng được, sau thành đạt sẽ tính tới.
IV. GIA NHẬP CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ CAO ĐÀI
Nhờ Bào huynh Đạt Minh giới thiệu đi hầu đàn cơ tại nhà đạo trưởng Huỳnh Chơn ở Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng), lẽ ra nếu không có vụ trốn lên núi, thì đã được anh rủ đi hầu đàn ở Minh Tân Khánh Hội trước, mà hiểu đạo rộng hơn trước khi vào Cơ Quan. Sau đó một vài đàn cơ, mình thấy đường lối chánh chơn của anh chị em đạo tâm, nên nhận chức thủ bổn cho Cơ Quan, vì mình đang làm giám đốc một công ty lớn ở Đô Thành Sài Gòn và nhơn viên phòng Thương mại kỹ nghệ nên dĩ nhiên được tin cậy. Sau đó có Đức Lê Đại Tiên nhắc vụ mình đi núi tìm đạo khi trước và khuyên mình hãy hợp tác hành đạo vì đúng với tâm nguyện và cũng là Thánh ý cơ duyên của hiền đệ. Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch có cho một bài thi tại Thánh tịnh Ngọc Minh Đài năm 1965.
“Có kẻ buôn hài đến chợ trưa,
Kề bên bến giác cậy ông đưa;
Ông đưa, ông dặn này ghi nhớ,
Hài của người buôn lắm kẻ vừa.”
Ngài khuyên hãy hợp tác hành đạo với Cơ Quan mặc dầu Ơn Trên chưa chỉ định nhưng cũng là Thánh Ý và dặn hãy cẩn thận đừng phí ngày giờ và tiền bạc không đúng lúc và không nhằm chỗ (có lẽ Ngài muốn nhắc câu "hài của người buôn lắm kẻ vừa") vì bản tánh cởi mở rộng rãi vui vẻ hay làm vừa lòng mọi người.
Đến đêm giao thừa, 29 tháng Chạp năm Ất Tỵ (20-1-1966) tại Thiên Lý Đàn, Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ có ban cho Thánh danh:
“LÊ VĂN BÁ thấy con chí nguyện,
Hiệp chung lo điều kiện Cơ Quan;
Dốc đem, đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.
Nay Thầy ban danh Tiên cho trẻ,
Để con hiền mát mẻ tâm trung;
Tên là CHÍ TÍN lập công,
Bước mau để kịp đại đồng thế gian.”
Ngày Cơ Quan PTGL ra mắt đại hội tại Nam Thành Thánh Thất, được nhơn sanh bầu vào Ban chấp hành đầu tiên, ngày rằm tháng hai năm Bính Ngọ (1966) với chức vụ Nội Chánh Vụ trưởng, cùng với Đạo trưởng Huệ Lương Trần văn Quế lãnh đạo với chức vụ Tổng Lý Minh Đạo và Bào Huynh Đạt Minh làm Ngoại Giao Vụ.
Dưới đây liên tiếp nhận lãnh các chức vụ trong Cơ Quan.
Nội Chánh Vụ Trưởng nhiệm kỳ đầu tiên năm Ất Tỵ 1966 và nhiệm kỳ hai năm kế 1967-1968.
Phó Tổng Thơ Ký nhiệm kỳ hai năm Kỷ Dậu và Canh Tuất (1969-1970) kiêm Tổng Thơ Ký và Tham Lý Minh Đạo cuối năm 1969 vì Đạo trưởng Minh Lý ra khỏi Cơ Quan.
Tổng thơ ký chánh thức năm Tân Hợi 1971.
Quyền Tham Lý Minh Đạo nhiệm kỳ 3 năm 1972-1973-1974.
Tham Lý Minh Đạo chánh thức nhiệm kỳ 3 năm 1975-1976-1977.
Chủ tịch Hội Đồng Nghiên cứu Giaó lý sau khi Đạo trưởng Kiến Minh ra đi vào năm 1978, một tổ chức song hành với CQPTGL.
Sau hết là Phó Tổng Lý Minh Đạo kể từ 18-2 Ất Sửu (07-4-1985) và lưu nhiệm một năm nữa của năm Bính Dần 1986 cho đúng chu kỳ 60 năm đạo Cao Đài ra mắt nhơn sanh tại Việt Nam. Phục vụ CQPTGL được hơn 21 năm, quá giai đoạn 20 năm đầu của bộ máy Đại Đạo sau cùng, lúc nào cũng dốc lòng đem hết chí thành tâm đạo khả năng công sức và tài nguyên để làm tròn trách vụ của mình nhận lãnh với thiêng liêng và nhơn sanh giao phó, không thoái chí ngã lòng, chồn chơn lùi bước trước những khảo đảo từ nội tâm đến ngoại cảnh đưa đến, đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn lúc ban Tiên danh Chí Tín:
"Dốc đem đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.” [202]
Để đền ơn Thầy và chư Phật Tiên có công dìu dắt dạy dỗ, lúc nào cũng cố gắng dồi trau tính nết, tâm hạnh để xứng đáng là học trò Tiên, môn đồ của Thầy, cốt lo chánh kỷ để hóa nhơn với chí hướng đã chọn khi bước vào con đường tu học là tiên lo tự giác, hậu phải giác tha để đền ơn đáp nghĩa với Thầy và chư Phật Tiên đã có công chắt chiu dạy dỗ từ thuở còn thơ. Trong lúc hành sự nhiệm vụ Tổng thơ ký được Đức Giáo Tông nâng đỡ và âu yếm gọi là Tổng thư ký của Bần Đạo. Và khi lãnh nhiệm vụ mới là Tham Lý Minh Đạo, được Đức Giáo Tông khảo hạch trước bửu điện và toàn thể nhơn viên Cơ Quan và khấu trình dưới sự chứng kiến theo dõi của Đạo trưởng Phụ tá Bảo pháp Chơn Tâm và toàn thể nhơn viên Cơ Quan dự đàn cơ (đàn 15-2 Nhâm Tý 29-3-1972):
THI
“Năm trước, muốn xong bản phúc trình,
Phải nhiều tâm thức lặng thinh thinh,
Móc moi tâm não ra mà viết,
Viết tới xóa lui vẫn bực mình.
HỰU
Nay vừa xuất khẩu đã thành văn,
Mạch lạc khấu trình có lớp lang,
Bất tuyệt thao thao đầu chí cuối,
Tỏ ra tiến bộ thật vô ngần.”
Thật chúng ta phải cảm đội thâm sâu sự chắt chiu dạy dỗ từng bước, từng chi tiết hành đạo như những người anh người cha ruột thế gian với đầy đủ tình thương yêu đậm đà thấm thiết, lắm lúc quá nuông chìu chúng ta, thể hiện đức độ hạ mình của Tiên Phật trong cơ tận độ kỳ ba mà tất cả người Thiên ân sứ mạng cần phải noi theo. Ngoài ra, Ngài còn không quên nhắc nhở gởi gắm mình về công phu luyện kỷ cho Đức Đông Phương Lão Tổ (04-02-1972).
“Thấy trò em út nghĩ mà thương,
Trỗi bước từ lâu vạn dặm trường;
Sức mọn, nhưng lòng không quá mọn,
Đỡ nâng nhờ có Lão Đông Phương.”
Thật là phấn khởi vô cùng, mình thấy đã được ân huệ Thiêng Liêng dắt dìu từng bước công quả, công trình và công phu cho đầy đủ mới có thể phản bổn hoàn nguyên phục hồi cựu vị được và chính hai Đấng lãnh đạo tối cao vô vi của lưỡng đài Cửu Trùng và Hiệp Thiên trực tiếp huấn luyện cho mình được nên người môn đệ xứng đáng của các Ngài và của Thầy nữa. Nhớ có lần Thầy nhắc nhở sứ mạng của mình qua bài thi:
"Chí Tín, chí tâm chẳng đổi dời,
Nghiệp đời chừng đó dễ buông trôi;
Gay chèo Bát Nhã trên dòng nước,
Sứ mạng Tam Kỳ nhớ trẻ ôi!" [203]
Và ở một đoạn Thầy nhắc nhở thêm:
"Tâm con vốn Bửu Tòa Thầy ngự,
Hãy giúp người gìn giữ Thiên cơ;
Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ,
Công Bình, Bác ái, Từ bi đứng đầu. (…)
Đã chấp nhận con đò cứu khổ,
Lướt dòng sông quốc độ kỳ ba;
Tâm con con sẵn bửu tòa,
Ngoài tâm chẳng có chi là đâu con." [204]
Phải chăng đã đến lúc phải đem "đạo mầu công dụng mọi nơi" để "cho người thông cảm cùng người; dẹp tan sắc phái phục hồi tình thương" cho đúng tiêu đích của Cơ Quan. Và ai, lúc nào, nơi đâu? Cho nên các hàng lãnh đạo Cơ Quan được lịnh xuất gia, trước hết Đạo trưởng Quyền Tổng Lý Minh Đạo Thiện Bảo và Đạo tỷ Chủ Tịch Nữ Chung Hòa Ngọc Kiều và liền đó 5 bậc đàn anh của Cơ Quan: Chơn Tâm, Chí Tín, Đạt Minh, Chí Hùng và Chí Thuần cũng được lịnh xuất gia vào ngày 15-5 Ất Sửu (1985). Trên dòng đạo pháp cũng đã được Ơn Trên truyền giao giáo pháp đủ đầy khả dĩ thay Tôn Sư mà truyền lại đàn em. Các vị tiếp nối như đạo huynh Huệ Chơn vừa được nâng đỡ lên hàng Phụ tá Bảo pháp, Chí Thành và Thiên Vương Tinh cũng được ân huệ cho vào khóa tu Bá nhựt trúc cơ để cho đủ thần lực mà hành đạo.
Nếu chỉ dạy cho Đạo tỷ Ngọc Kiều, sau khi giải thích ý nghĩa của hai chữ XUẤT GIA của các hàng Thiên ân Cơ Quan, thì không phải là thật tế vì bịnh và hoàn cảnh của đạo tỷ làm sao thực hành lời dạy cao xa dưới đây:
“Sống đây vũ trụ là nhà,
Nghĩa là non nước, tình là vạn sanh." [205]
Cũng trên đường hướng đó, Đức Ngô Đại Tiên đã dạy Chí Tín một đàn cơ tại Minh Đức Tu Viện, sau khóa tu cho 3 vị Chí Thành, Chí Mỹ, Thanh Chơn ngày 2 tháng 10 Nhâm Tuất (16-11-1982):
"Chí Tín, hiền đệ có tâm hành đạo muốn kế tục đạo nghiệp gìn giữ Tổ Đình (tức là Tổ Đình của Chiếu Minh Cần Thơ mà Chí Tín là môn sanh đã thọ chơn truyền) và theo ý của nữ đồ MINH DĨ (là người chị cao niên và uy tín nhất của Phái Chiếu Minh hiện nay). Đó là điều Tiên Huynh rất lưu ý, nhưng đúng theo sự thật thì Tiên Huynh và hiền đệ có cùng sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ mà Thượng Đế đã phó giao. Nay Tiên Huynh, do tôn ý trước Tam Giáo Tòa, hiền đệ được về Tổ Đình Cần Thơ để cùng chung lo lễ cúng, nhưng phải hoãn việc chấp cơ, hãy dùng tâm niệm vô vi, Tiên Huynh sẽ chứng lễ và ban ơn cho toàn thể chư đệ tử nam nữ. Hiền đệ còn phải được dạy thêm trong một khóa tu Đông Chí sắp đến mới đủ thần lực thanh tịnh mà kế tục đạo nghiệp của Tiên Huynh đến hết một thời gian nhất định. Hiền đệ còn mang một sứ mạng chính thức to tát hơn. Nên lưu ý việc gì đến sẽ đến. Phần Tiên Huynh khuyên hiền đệ hãy bình tâm mà thi hành mọi việc cho đúng đạo lý thiên cơ.
Trường thi buổi chót chọn nguyên nhân,
Hoằng đạo thế Thiên định cõi trần,
Không chậu không lồng là giải thoát,
Còn danh, còn tướng ấy còn phân.
Đạo tâm ví thể Trời che chở,
Tục tánh dường như đất cắt phần,
Giải thoát chác chi dòng đối đãi,
Sạch lòng mới xứng phận Thiên ân.”
Và trong một đàn cơ riêng tại Minh Đức Tu Viện nhơn ngày kỷ niệm khai trương 25-01-1985 (Ất Sửu), Chí Tín và hiền tỷ Bạch Tuyết cầu Ơn Trên dẫn đường mở rộng lối hành đạo cho Cơ Quan theo dự tính, nhưng Ơn Trên lại không chỉ rõ hay chấp nhận đường lối đó, lại chỉ vỏn vẹn cho có một bài thi đố rồi thăng, nên chúng tôi không dám tái cầu ai nữa.
“Chắt chiu từ thuở mới nên hiền,
Gởi gắm chờ người biết hạnh duyên;
Tôn chỉ nêu cao đường tận độ,
Dư đồ vạch rõ lối qui nguyên.
Tùy tâm nguyện sẽ khơi nguồn thánh,
Do chí thành mới đạt ý Thiên,
Muốn tới Cao Đài đi mới tới,
Có chi mà phải hỏi thần tiên." (Đức Vô Vi Tiên Trưởng)
Trong một đàn cơ, rằm tháng 7 Ất Sửu (30-8-1985), Đức Bảo Pháp Huỳnh Chơn cho một bài thi để trấn an chư Thiên ân:
“Vật cùng tắc biến, biến liền thông,
Trí giả tri cơ lối đại đồng;
Pháp đạo vận hành từ thượng hạ,
Quyền Thầy chuyển hóa khắp Tây Đông.
Thiên ân hiểu rộng không nao chí,
Hướng đạo nhìn xa chẳng não lòng,
Dụng đó vẫy vùng không dấu dạng,
Tùy thời ẩn hiện tợ thần long.”
Và Đức Lý Giáo Tông tiếp theo cho một bài thi đầy đáp số:
“Tiên Ông trao sẵn bộ Thiên thơ,
Đã mấy mươi năm luống đợi chờ;
Sứ mạng thiên ân kỳ tận độ,
Xây nền Thánh đức kịp thời cơ.” [206]
V. PHẦN THỌ TRUYỀN ĐẠO PHÁP
Thọ pháp Sơ thiền cửu cửu chung với chư huynh tỷ đệ muội ở Cơ Quan, khóa đầu tiên năm Bính Ngũ (12-6-1966) tại Thiên Lý Đàn với đạo trưởng Huỳnh Chơn Bảo Pháp Chơn Quân theo Thánh lịnh của Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ. Nhưng vốn quyết tầm đạo cho thấu đáo chơn truyền của Đại Đạo Chiếu Minh, sau khi học Đại Thừa Chơn Giáo của Phái Chiếu Minh. Nhờ đạo trưởng Huệ Lương quen thân với các anh tu của phái Chiếu Minh của các đàn Long An (Anh Lộc), Long Hoa (anh Truyện) và đàn Chợ Lớn (anh Hai Quảng), tôi lần mò làm quen được thân thiết với anh Truyện vốn cùng nghề XNC trong phòng thương mãi và kỹ nghệ Saigon, nên thường được mời ăn cơm chay, tôi ngỏ ý xin keo để trước được hầu đàn của Chiếu Minh, sau thọ truyền đạo pháp. Tại đàn Long Hoa năm 1967-1968, tôi xin keo không được, các anh khuyên tiếp tục làm âm chất công quả cho đầy đủ đi, vì anh còn sứ mạng nơi cơ phổ độ, chừng đến thời giờ Thầy kêu mấy hồi. Mãi hai năm sau, tôi đến đàn anh Lộc (Long ẩn) do sự mời mọc của anh, chớ 2 năm trước anh từ chối cho rằng mình theo chưa nổi đâu. Vào xin keo cũng không được nữa (cũng do đó mà đàn cơ ở Cơ Quan Đức Ngô Đại Tiên đã cho biết lý do không nhận mình làm đệ tử). Nhưng sau thời gian quan sát mình, và biết mình thật tâm tu hành và đã có quá trình hành đạo nhờ dắt các phái đoàn Tòa Thánh, Hội Thánh đến làm lễ tại Thánh Đức Tổ Đình Cần Thơ trước đó, nên anh Lộc và anh Tiềng, vốn là cặp đồng tử của đàn, cho đặc ân quì hầu Thầy ở cuối gốc đàn, hy vọng Thầy thương tình mà kêu dạy (đây là biệt lệ của phái Chiếu Minh đó). Vì cảm trước tấm lòng chí thành cầu Đạo, nên Thầy ban ơn cho bài thi ngày 15-3 Canh Tuất (18-6-1970):
“Tòng BÁ quản gì với tuyết sương,
Nguyên căn tỉnh ngộ tránh tang thương;
Theo Thầy học đạo tìm chơn lý,
Khỏi uổng kiếp này ở cõi dương.”
Một tháng sau, hầu đàn xin keo để được Thầy ban ơn cho thọ pháp hay không thì keo cho. Theo Chiếu Minh, 100 ngày đầu phải công phu cho đầy đủ, muốn chứng minh mình được đầy đủ chưa, phải xin keo Thầy cho biết, thì ra mình xin keo Thầy không chứng minh. Điều dễ hiểu mình đang có phận sự vận động các chi phái thống nhứt nghĩa là mình mót bòn thêm công quả để xong xuôi mình qua Chiếu Minh tu luôn cho trọn phần đầy đủ quả công, trọn nghĩa thủy chung với Cơ Quan. Nhưng xin keo, Thầy không chứng minh điều này dễ hiểu vì mình tu còn thiếu sót, không đủ tứ thời hằng ngày, vì phải đi hành đạo đây đó, và các anh chị trong Chiếu Minh cũng thường quở trách hoài. Được Thầy ban ân, bài thi được truyền bá đến Tổ Đình Cần Thơ mau lẹ, và mình bị các anh chị cười, nhắc mãi bài Thầy chỉ mình để làm bài học chung cho những ai còn thiếu sót phần công phu như mình:
“Bá nhất độ (là 100 ngày) in khuôn in lối,
Một mình con hai mối sao xong;
Ai ra trả nợ đại đồng,
Ai về cố thủ đơn phòng sớm trưa.
Đã bao lúc Thầy vừa ý trẻ,
Khuyên con đừng xem rẻ qui điều;
Thương trò Thầy mới dắt dìu,
Thị phi càng lắm, càng nhiều lạc đưa.
Gương Lục Tổ ngày xưa hiển hiện,
Tay cầm chày, miệng niệm Di Đà;
Mặc người Thần Tú cao xa,
Một câu lục tự thoát qua bể trần.
Hỡi nam nữ, mẫn cần lời dạy,
Luận lý nhiều quấy phải chê bai;
Ngày đêm tưởng niệm Cao Đài,
Bớt nghe bớt thấy, bớt hoài mới nên.
Muốn thành Đạo phải bền chí cả,
Muốn đăng tiên tâm hỏa diệt tiêu;
Đơn phòng đừng để quạnh hiu,
Khách trần lần dứt, sớm chiều tầm nguyên.”
(Đàn Long Ẩn, 07-10-1972)
Sau đó, rán công phu thêm cho đầy đủ và xin keo thì Thầy chứng bá nhật liền và chánh thức được lên nhất bộ. Theo nguyên tắc, nếu tu đúng 3 năm 8 tháng, liệu xét mình đầy đủ thì xin keo để Thầy chứng minh lên Nhị Bộ, nhưng không dám xin keo, để chừng nào Thầy ban ơn thì Thầy cho như có vài trường hợp của các huynh trưởng được Thầy ban ơn.
Mãi đến hôm đàn kỷ niệm ngày Thầy thoát xác 13-3 Ất Mão (24-4-1975) thay vì đi về làm lễ lớn tại Tổ Đình Cần Thơ như thường lệ, nhưng vì tình hình lúc này găng quá, nên làm lễ tại Saigon. Được Thầy ban ơn như sau:
“Hữu chí thiền ngộ đặng pháp minh,
Căn cơ hoài bão hướng Kim Đình;
Tứ ân Nhị Bộ cho tròn vẹn,
Mối Đạo Trời Cha gắng giữ gìn.”
Và Thầy dạy tập chấp bút để thay thế anh Tiềng già yếu hay bịnh hoạn.
Ở CQPTGL được Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ truyền trao nhiều pháp môn như: Pháp Ngoại Công phu thể dục gọi là Thập Nhị cẩm Đoạn, trong đó có trùng nhiều tư thế công phu của Chiếu Minh, các khẩu quyết Sơ cơ, Nhị cơ, Tam muội chánh định. Pháp môn luyện âm dương ngũ hành để diệt ngũ âm trừ ngũ tặc, luyện tan thất tình lục dục cho tâm được thanh tịnh mà bước vào trúc cơ có hiệu năng hơn. Đặc biệt trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp này hành giả gặp nhiều khó khăn.
Được Đức Lão Tổ và sư phụ Ngô Đại Tiên dạy truyền pháp Chiếu Minh cho nên xin ở Cơ Quan nếu có đủ điều kiện trường chay tuyệt dục và quyết tâm cầu tu giải thoát đốt cháy hết que trầm (thay cho việc đốt hồng thệ trong Chiếu Minh) lập đại nguyện trước Tam Giáo Tòa, nếu khinh thường đạo pháp, khi trọng tội cũng bị tam đồ bất năng thoát tục không khác gì lời thệ ở Chiếu Minh, mục đích để dung hợp pháp môn gọi là tân pháp Cao Đài (pháp môn bất nhị mới thiệt là con đò trời).
Được thu nhận vào khóa Trúc cơ đầu tiên của Cơ Quan năm Mậu Ngọ (1978), sau đó được tiếp tục thọ pháp thập ngoạt hoài thai (300 ngày) và điều ngộ nghĩnh thay làm cho mình vững lòng tin thêm duyên lành chính Sư phụ mình là Đức Ngô Đại Tiên được lịnh Tam Giáo Tòa truyền chánh pháp tu luyện nội đơn trực tiếp với Đạo trưởng Bạch Lương Ngọc trụ trì Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc tại Minh Đức Tu Viện vào ngày mùng 06-7 Nhâm Tuất (24-8-1982).
Với những lời tự thuật này, kính mong chư hiền huynh hiền tỷ và chư đệ muội nghiên cứu suy nghiệm để làm bài học cho bản thân hầu tiến trổi hơn tệ đệ đã mất nhiều thời gian hơn trước đó. Cầu xin Đức Tôn Sư và Sư phụ chứng lòng thành tri ân sâu xa của đệ tử và xin nguyện để hết lòng chơn thành truyền trao đạo pháp cho những ai có căn lành và được nhị vị chứng giám dạy bảo để không mang trọng tội khinh truyền đạo pháp
[202] Thiên Lý Đàn, 29-12 Ất Tỵ, 20-01-1966.
[203] CQPTGLĐĐ, 15-01 Nhâm Tý, 29-02-1972.
[204] CQPTGLĐĐ, 15-10 Quí Sửu, 09-11-1973.
[205] CQPTGLĐĐ, 06-3 Giáp Tý, 06-4-1984.
[206] CQPTGLĐĐ, 15-7 Ất Sửu, 30-8-1985.
http://www.caodaism.net/thuvien/viewstory.php?sid=1356&warning=6
Nguồn: CHÍ TÍN (LÊ VĂN BÁ)
Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2019
Chỉ Đạo cho BÙi HÀ Thanh
36-A. Chỉ Đạo cho BÙi HÀ Thanh
Do sự hướng dẫn của thân phụ trong gia đình đạo, ông Bùi Hà Thanh bắt đầu trường chay năm 24 tuổi, ông thấm nhuần đạo lý của Đại Thừa khi tiếp xúc với Quan Phủ
Năm 28 tuổi Ông đốt Đại Hồng Thệ vào ngày 14 tháng 07, đến ngày rằm tháng 8 năm Tân Mùi 1931 ông được chỉ đạo tại nhà Quan Phủ.
Ông được chỉ đạo với sự hiện diện của Thân Phụ là ông Bùi Quang Huy và thân mẫu, trong khi ông được Quan Phủ chỉ đạo cặn kẻ từng chút, từ hơi thở, ông Bùi Quang Huy phân bì nói rằng: "Quan Lớn dạy nó kỷ quá, hơn chúng tôi nhiều. Với ai nấy ông chỉ biểu coi đây, làm vầy, làm vầy, không cắt nghĩa gì ráo để dể phân biệt trật trúng”
Ông đảnh lễ bái sư, Quan Phủ lật đật đứng lên hai tay cản không cho lạy và nói “ Con ráng tập luyện cho đúng phép, gìn giữ kỹ lưỡng. Chắng có gì nhiều, con cứ tưởng THẦY (Tâm chơn như) đừng rời. Ngày sau THẦY sẽ dạy Con trong TÂM dạy ra. Ông Thầy hữu hình này có ngày cũng bỏ xác chẳng còn gần nhau (Thầy Con hai thân vóc). Con cố gắn tìm cho được Ông THẦY vô hình … trong CON”. (gằn mạnh tiếng) “THẦY CON một vóc”.
Ông là người sau cùng được Quan Phủ chỉ đạo .
Do sự hướng dẫn của thân phụ trong gia đình đạo, ông Bùi Hà Thanh bắt đầu trường chay năm 24 tuổi, ông thấm nhuần đạo lý của Đại Thừa khi tiếp xúc với Quan Phủ
Năm 28 tuổi Ông đốt Đại Hồng Thệ vào ngày 14 tháng 07, đến ngày rằm tháng 8 năm Tân Mùi 1931 ông được chỉ đạo tại nhà Quan Phủ.
Ông được chỉ đạo với sự hiện diện của Thân Phụ là ông Bùi Quang Huy và thân mẫu, trong khi ông được Quan Phủ chỉ đạo cặn kẻ từng chút, từ hơi thở, ông Bùi Quang Huy phân bì nói rằng: "Quan Lớn dạy nó kỷ quá, hơn chúng tôi nhiều. Với ai nấy ông chỉ biểu coi đây, làm vầy, làm vầy, không cắt nghĩa gì ráo để dể phân biệt trật trúng”
Ông đảnh lễ bái sư, Quan Phủ lật đật đứng lên hai tay cản không cho lạy và nói “ Con ráng tập luyện cho đúng phép, gìn giữ kỹ lưỡng. Chắng có gì nhiều, con cứ tưởng THẦY (Tâm chơn như) đừng rời. Ngày sau THẦY sẽ dạy Con trong TÂM dạy ra. Ông Thầy hữu hình này có ngày cũng bỏ xác chẳng còn gần nhau (Thầy Con hai thân vóc). Con cố gắn tìm cho được Ông THẦY vô hình … trong CON”. (gằn mạnh tiếng) “THẦY CON một vóc”.
Ông là người sau cùng được Quan Phủ chỉ đạo .